Cơn khát đam mê
Người ta kể rằng: có một người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:
- Ở trần gian con làm nghề gì?
- Anh ta thưa: Con làm nghề đào vàng.
- Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.
- Anh ta đáp: Thưa ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.
- Nhờ dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng đang ở thiên đàng. Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi! Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục. Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng hy sinh cả hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.
Có thể nói, đói khát vàng bạc, giầu sang chỉ là một trong muôn vàn cơn đói khát đang hành hạ và giết chết hàng vạn người. Có biết bao cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác thịt, của tiền tài danh vọng đã đẩy bao người vào hố sâu của vực thẳm. Càng ngụp lặn trong vực thẳm, càng làm cho họ trở nên điên rồ đánh mất nhân cách, đánh mất tính người. Họ đã lầm. Vì tất cả những thứ đó không bao giờ làm thoả mãn cơn khát trong lòng họ. Vì được voi đòi tiên. Vì lòng tham vô đáy. Họ chỉ bắt được bóng chứ không bắt được mồi. Giếng sâu của lòng tham chỉ làm cho con người thất vọng, chán chường. Con người vẫn khao khát một điều gì đó vượt lên những ảo ảnh trần gian.
Người thiếu phụ bên bờ giếng Giacob hôm nay cũng thế. Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín nước. Nhưng uống nước này là tự đầy đoạ mình. Dù chưa nhận ra, nhưng chị vẫn thao thức và bị dày vò vì một cơn khát nào đó mà những mối tình trần tục đã không giải khát nổi, đã không làm dịu đi sự thèm khát chút nào, càng đi sâu vào biển tình, chị càng thấy thiếu thốn. Xin mời Bạn cùng đọc đoạn Tin Mừng sau đây :
Chúa nhật 19/3/2017 - Tuần 3 MC
Ga 4,5-42
Khi ấy Ðúc Giêsu đến một thành xứ Samaria, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. 6 Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào mười hai giờ trưa.
7 Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Ðức Giêsu nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" 8 Quả thế, các môn đệ của Người vào thành mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?" 10 Ðức Giêsu trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống? 11 Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy." 13 Ðức Giêsu trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."
15 Người phụ nữ nói với Ðức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước." 16 Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi hãy trở lại đây." 17 Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng." Ðức Giêsu bảo: "Chị nói: tôi không có chồng là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng." 19Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa." 21 Ðức Giêsu phán: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. 22 Các ngươi thờ Ðấng các ngươi không biết; còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. 23 Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và những ai thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật." 25 Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Ðấng Mêsia, gọi là Ðức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự." 26 Ðức Giêsu nói: "Ðấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây." 27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy?" hoặc "Thầy nói gì với chị ấy?"
28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29 "Ðến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Ðấng Kitô sao?" 30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người. 31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa." 32 Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết." 33 Các môn đệ mới hỏi nhau: "Ðã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" 34 Ðức Giêsu nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! 36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ."
39 Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Ðức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người ở lại đó hai ngày. 41 Số người tin vì lời Ðức Giêsu nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Ðấng cứu độ trần gian."
Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt nên ngồi xuống trên bờ giếng"; và Ngài nói với người phụ nữ Samari "Chị cho tôi xin chút nước uống". Chúa Giêsu xuống trần gian để chia sẻ kiếp sống của con người; Ngài cũng là một con người cụ thể, có những khó khăn của cuộc sống, có những vấn đề phải lo toan, có những vất vả đắng cay của một kiếp người như tất cả chúng ta. Chúa Giêsu cũng trải qua sự mỏi mệt và cơn khát của cuộc sống con người. Ðừng ai nói rằng chỉ một mình tôi khổ nhất, chỉ một mình tôi bất hạnh nhất, cuộc đời của tôi khốn nạn nhất; vì đã có một Vị Thiên Chúa làm người và Ngài cũng "mỏi mệt", cũng "khát" như tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, dân Israen đã khát và đã kêu than trách móc; người thiếu phụ Samari đã khát và mong chờ Chúa Giêsu cho mình một thứ nước uống vật chất, bà được "hết khát và khỏi đến đây lấy nước". Còn Chúa Giêsu, được chia sẻ cơn khát của con người, Ngài lại càng ước mong ban tặng một thứ Nước Trường Sinh có thể giúp nhân loại khỏi khát. Nước đó chính là bản thân Chúa Giêsu, là ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, là Ðấng có thể giải quyết "cơn khát" sâu xa giằng xé con người : "Ðấng ấy chính là Ta, Người đang nói với chị đây."
Cơn khát trong sa mạc cuộc đời vẫn luôn là "Maxa" và "Mêriba", nghĩa là vẫn là nơi "thử thách" và "gây chuyện". Nếu chúng ta cứ kêu than và trách móc; nếu chúng ta cứ tưởng có thể "giải khát" bằng những thứ "nước tiền tài", "nước cơm bánh", "nước danh vọng", thì chúng ta đang tiếp tục cuộc thách thức Chúa như người Israen xưa.
Ngược lại, nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Ðấng duy nhất có thể ban "Nước" để "ai uống Nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa", thì chúng ta cũng sẽ được cứu độ như người Samari; và được vui mừng như "Dân Samari xin Người ở lại với họ"… "vì chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu tinh của trần gian."
Lạy Chúa, con cũng có một mảng đời riêng tư với những khát vọng cháy bỏng. Vào lúc đời xế bóng này, khát vọng lớn nhất con có chính là được thứ tha và thương xót; vì cũng như mọi kiếp người, cuộc sống con cũng đầy dẫy những khiếm khuyết và tội lỗi. Như người nữ Sa-ma-ri, con xác tín rằng: chỉ có nước hằng sống, tức là lòng từ ái hải hà của Chúa, mới có thể hoàn toàn giải được cơn khát cháy khô cổ họng của con, bây giờ và cho đến muôn đời. Xin cho con xác tín và sống sâu xa cảm nghiệm Tin Mừng này. A-men.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét